Ngày ấy, khi bà Hồng sinh bé gái thứ hai, niềm vui trong lòng chưa kịp trọn vẹn thì đã phải hứng chịu nhát dao lạnh lẽo từ chính người chồng đầu gối tay ấp. Ông ta nhìn bà với ánh mắt đầy khinh miệt, buông đúng một câu:
“Thứ đà/n bà không biết đẻ”
Rồi dứt áo ra đi, để lại người vợ trẻ cùng hai đứa con đỏ hỏn. Bà Hồng gồng mình vừa làm cha vừa làm mẹ. Ban ngày cấy thuê, tối đến may vá, từng đồng chắt chiu để mua sữa, mua sách cho các con. Có những đêm mưa gió, bà ngồi vá chiếc áo rách dưới ánh đèn dầu leo lét, đôi mắt nhòe đi vì nước mắt. Nhưng nhìn hai con gái ngủ ngon lành, bà lại siết chặt đôi tay, tự nhủ:
“Dù thế nào mẹ cũng phải nuôi các con nên người.”
Thời gian lặng lẽ trôi, những ngày cơ cực nối dài bằng mồ hôi và nước mắt. Hai cô con gái, thấu hiểu sự hi sinh của mẹ, chẳng bao giờ kêu than. Các em học dưới ánh đèn vàng vọt, học bằng ý chí trả ơn mẹ, và học bằng nỗi uất nghẹn vì bị gọi là “con nhà không có cha”.
Rồi một ngày, sau 25 năm, tin vui đến: cả hai đều đỗ bác sĩ nội trú – niềm mơ ước của biết bao người. Hôm nhận giấy báo, bà Hồng ôm chặt con, mái tóc đã bạc trắng, khóe mắt rưng rưng hạnh phúc.
Nhưng chưa kịp vui trọn vẹn, người đàn ông năm xưa xuất hiện. Giờ ông ta đã già, nghèo túng, chẳng còn nơi nương tựa. Ông tìm đến, đứng trước cổng nhà, giọng run run:
“Các con… ba đây… ba muốn nhận lại các con.”
Không gian chợt lặng. Hai cô con gái nhìn nhau, trong lòng dậy sóng. Hình ảnh người cha bỏ rơi, tiếng rẻ rúng “không biết đẻ” năm nào ùa về. Nhưng cũng ngay lúc ấy, họ thấy bàn tay mẹ run run, đôi mắt bà nhìn xa xăm mà chẳng nói lời nào.
Một người con gái chậm rãi đáp:
“Chúng tôi đã có mẹ – người vừa làm cha, vừa làm mẹ suốt 25 năm qua. Ông có quyền gọi mình là ‘ba’, nhưng ông không còn quyền ở trong trái tim chúng tôi nữa.”
Người đàn ông chết lặng. Ông nhìn mái tóc bạc của bà Hồng, nhìn hai người con thành đạt, mà thấy lòng quặn thắt. Tất cả những gì ông từng khinh miệt, từng vứt bỏ… nay đã trở thành niềm kiêu hãnh không bao giờ ông còn có thể chạm tới.