Loại lá thơm mọc khắp Việt Nam có nhiều công dụng chữa bệnh
Lá lốt mọc tự nhiên ở nước ta, không chỉ là gia vị thơm ngon trong ẩm thực mà còn có tác dụng chữa bệnh xương khớp, tiêu hoá, phụ khoa… Tuy nhiên, nếu dùng lá lốt không đúng cách, người bệnh sẽ bị ảnh hưởng.
Theo bác sĩ chuyên khoa 1 Lâm Nguyễn Thùy An, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM – Cơ sở 3, lá lốt là cây thân thảo, thuộc họ hồ tiêu. Các nghiên cứu cho thấy lá lốt chứa nhiều hoạt chất hóa học có lợi cho sức khỏe.
Trong đó, tinh dầu là thành phần chính của lá lốt, chiếm khoảng 0,5-1% khối lượng khô. Tinh dầu lá lốt có mùi thơm đặc trưng, chứa nhiều hợp chất hữu cơ như beta-caryophylen, benzylaxetat, piperolotin, piperolotidin, piperlolotinon… Tinh dầu lá lốt có tác dụng kháng khuẩn, kháng viêm, kích thích tiêu hóa và giảm đau.
Lá lốt chứa một số loại alcaloid nên có tác dụng làm giãn mạch máu, làm ấm cơ thể và trừ phong hàn. Ngoài ra, lá lốt còn có tác dụng bảo vệ màng tế bào, ngăn ngừa viêm nhiễm và ung thư do chứa nhóm hợp chất có khả năng chống oxy hoá như flavonoid.
Lá lốt là loại rau quen thuộc với người Việt Nam. Ảnh: Pexels
Trong y học cổ truyền, lá lốt được xếp vào nhóm vị thuốc trừ phong thấp, có vị cay, nồng, hơi đắng, tính ấm. Bác sĩ An cho biết vị thuốc này được sử dụng để điều trị nhiều bệnh lý liên quan đến tiêu hóa, xương khớp, da liễu và sản phụ khoa.
Bác sĩ dẫn chứng một số công dụng của lá lốt như: điều trị rối loạn tiêu hóa nhờ kích thích tiết dịch vị, giúp tiêu hóa thức ăn, chống đầy hơi, khó tiêu, nôn và tiêu chảy; giảm đau nhức và sưng khớp bằng cách sắc nước uống hoặc giã nát đắp lên vùng bị đau; giảm mồ hôi tay chân, trị viêm nhiễm âm đạo, giải cảm, điều trị mụn nhọt…
Mặc dù vị thuốc này có tác dụng chữa nhiều bệnh nhưng bác sĩ An lưu ý 4 điểm quan trọng để đảm bảo an toàn cho người dùng.
Thứ nhất, người bệnh chỉ nên dùng một lượng lá lốt vừa phải, trung bình từ 50 đến 150g, không sử dụng quá liều vì có thể gây ra kích ứng dạ dày, buồn nôn và tiêu chảy.
Thứ hai, không nên sử dụng lá lốt trong thời gian dài vì có thể gây ra suy giảm chức năng gan và thận.
Thứ ba, không nên sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú vì có thể gây ra co tử cung và ảnh hưởng đến sữa mẹ.
Thứ tư, không nên sử dụng cho người đang mắc bệnh táo bón, nhiệt miệng, nóng bức trong người, người bị sốt cao, viêm loét dạ dày và tá tràng, vì có thể gây ra kích thích và làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh.